ĐỘNG KINH

Thứ 7 ngày 24 tháng 02 năm 2018Lượt xem: 9033

Các bệnh lý co giật ... [Phần 2].

 

Cơn động kinh là sự phóng điện bất thường, không kiểm soát được xảy ra trong chất xám vỏ não và làm gián đoạn tạm thời chức năng bình thường của não. Cơn động kinh thường gây thay đổi nhận thức, những cảm giác bất thường, những vận động không tự chủ khu trú hoặc những cơn co giật (co lan tỏa không tự chủ cơ vân).

5. Chẩn đoán.

. Đánh giá lâm sàng.

. Đối với cơn động kinh mới khởi phát cần chỉ định chẩn đoán hình ảnh hệ thần kinh, xét nghiệm máu và điện não đồ.

. Đối với các bệnh động kinh đã chẩn đoán, thường dùng các thuốc chống co giật.

. Đối với những bệnh động kinh mới khởi phát hoặc đã có tiền sử động kinh, làm các xét nghiệm khác theo chỉ dẫn lâm sàng.

Đánh giá phải xác định xem liệu triệu chứng này là một cơn động kinh hay một nguyên nhân khác gây mất ý thức (ví dụ như chứng giả động kinh, ngất), sau đó xác định các nguyên nhân có thể xảy ra hoặc các yếu tố khởi phát cơn. Bệnh nhân có động kinh mới khởi phát được khám tại khoa cấp cứu; đôi khi có thể cho ra viện sau khi khám kỹ bệnh nhân. Những người có tiền sử bệnh động kinh có thể khám tại phòng khám chuyên khoa.

Bệnh sử

Cần hỏi bệnh nhân về những cảm giác bất thường, tiền triệu như co giật và các biểu hiện động kinh điển hình. Bệnh nhân thường không nhớ cơn co giật toàn bộ, do đó phải có nhân chứng mô tả về cơn động kinh của bệnh nhân.

Các biểu hiện của các tình trạng khác, chẳng hạn như thiếu máu não cục bộ đột ngột (ví dụ do rối loạn nhịp thất), có thể giống với động kinh gồm mất ý thức và một số cơn giật cơ.

Tiền sử

gồm thông tin về cơn động kinh đầu tiên và bất kỳ cơn nào sau đó (ví dụ: khoảng thời gian, tần suất, tuần tự của tiến trình, khoảng cách dài nhất và ngắn nhất giữa cơn co giật, tiền triệu, trạng thái sau động kinh, các yếu tố khởi phát). Tất cả bệnh nhân cần được hỏi về các yếu tố nguy cơ động kinh:

. Chấn thương đầu hoặc nhiễm trùng thần kinh trung ương trước đó.

. Tiền sử bệnh lý thần kinh.

. Sử dụng hoặc ngừng thuốc, đặc biệt là thuốc kích thích.

. Cai rượu.

. Không tuân thủ dùng thuốc chống co giật.

. Tiền sử gia đình bị động kinh hoặc bệnh lý thần kinh.

Bệnh nhân cũng cần được hỏi về các yếu tố khởi phát hiếm gặp (ví dụ: âm thanh lặp đi lặp lại, đèn nhấp nháy, trò chơi điện tử, chạm vào một số phần của cơ thể) và về tình trạng thiếu ngủ, là những yếu tố có thể làm giảm ngưỡng động kinh.

Khám thực thể

Bệnh nhân mất ý thức, cắn vào lưỡi, đại tiểu tiện không tự chủ (ví dụ nước tiểu hoặc phân trong quần áo) hoặc lú lẫn kéo dài sau khi mất ý thức cần xem xét chẩn đoán bệnh nhân bị động kinh.

Trong tình trạng giả động kinh, co cơ toàn thể và thiếu đáp ứng với các kích thích bằng lời thoạt nhìn có thể gợi ý các cơn động kinh co cứng toàn thể. Tuy nhiên, giả động kinh thường có thể được phân biệt với động kinh thực sự bởi các đặc điểm lâm sàng:

. Giả động kinh thường kéo dài hơn (vài phút hoặc nhiều hơn).

. Sau cơn thường không có lú lẫn.

. Bệnh cảnh điển hình là tăng trương lực có tiếp nối bởi pha co giật thường không xảy ra.

. Sự tiến triển của co cơ không tương xứng với cơn động kinh thực sự (ví dụ như các cơn giật di chuyển từ bên này sang bên kia và ngược lại, đẩy mạnh khung chậu quá mức).

. Cường độ có thể tăng giảm từng đợt.

. Các dấu hiệu sinh tồn, bao gồm thân nhiệt thường duy trì bình thường.

. Bệnh nhân thường chủ động chống lại sự mở mắt thụ động.

Khám lâm sàng hiếm khi chỉ ra nguyên nhân khi động kinh là vô căn nhưng có thể cung cấp các dấu hiệu khi động kinh là triệu chứng.

Cận lâm sàng

Làm các xét nghiệm thường quy nhưng khi kết quả bình thường không chắc chắn loại trừ bệnh động kinh. Do đó, chẩn đoán cuối cùng có thể dựa vào lâm sàng. Xét nghiệm phụ thuộc vào kết quả thăm khám thần kinh và khai thác tiền sử.

Nếu bệnh nhân có tiền sử bệnh động kinh và kết quả xét nghiệm bình thường hoặc không thay đổi, ít xét nghiệm cần kiểm tra, ngoại trừ đo nồng độ thuốc chống co giật trong máu. Chỉ định các xét nghiệm bổ sung nếu bệnh nhân có các triệu chứng cơ năng hoặc thực thể của các bệnh lý điều trị được như chấn thương, nhiễm trùng, hoặc rối loạn chuyển hóa.

Nếu cơn co giật mới khởi phát hoặc nếu kết quả xét nghiệm bất thường lần đầu thì cần phải chẩn đoán hình ảnh thần kinh. Bệnh nhân động kinh mới khởi phát hoặc các biểu hiện không điển hình cũng cần phải xét nghiệm, bao gồm xét nghiệm máu (điện giải đồ, nồng độ BUN, creatinin, glucose, Ca, Mg, và P) và xét nghiệm chức năng gan. Có thể chỉ định các xét nghiệm khác dựa trên những triệu chứng lâm sàng nghi ngờ:

. Viêm màng não hoặc nhiễm trùng thần kinh trung ương với kết quả hình ảnh học thần kinh bình thường: Chọc dò dịch não tủy là cần thiết.

. Việc sử dụng các loại thuốc gây nghiện không được ghi nhận có thể gây ra hoặc góp phần gây động kinh: Có thể thực hiện sàng lọc thuốc, mặc dù việc thực hành này gây tranh cãi vì kết quả dương tính không cho thấy mối quan hệ nhân quả và kết quả xét nghiệm có thể không chính xác.

. Động kinh căn nguyên ẩn: cần xét nghiệm kháng thể kháng thụ thể NMDA, đặc biệt ở phụ nữ trẻ (có đến 26% có thể có kết quả dương tính); kết quả dương tính cho thấy viêm não kháng thụ thể NMDA.

Hình ảnh học thần kinh (thường chụp CT, nhưng đôi khi chụp MRI) thường được thực hiện ngay để loại trừ khối u hoặc xuất huyết. Một số chuyên gia cho rằng việc chụp CT có thể được trì hoãn và có thể tránh ở trẻ em có cơn co giật do sốt đặc trưng mà tình trạng thần kinh nhanh chóng trở lại bình thường.

Chụp MRI sau đó được khuyến cáo khi CT âm tính. Nó cung cấp độ phân giải tốt hơn với các khối u và áp xe não và có thể phát hiện chứng loạn sản vỏ não, huyết khối tĩnh mạch não và viêm não Herpes. Chụp MRI sọ não sử dụng các chuỗi xung T1 và T2 có độ phân giải cao, có thể phát hiện teo hay xơ cứng hồi hải mã. MRI có thể phát hiện ra một số nguyên nhân phổ biến của động kinh như dị tật phát triển vỏ não ở trẻ nhỏ và xơ cứng thùy thái dương giữa, tổn thương tế bào thần kinh đệm và khối u nhỏ ở người lớn.

Điện não đồ là rất quan trọng trong việc chẩn đoán động kinh co giật, đặc biệt là động kinh cục bộ phức tạp hoặc cơn vắng ý thức, khi đó điện não đồ có thể là dấu hiệu rõ ràng nhất chỉ điểm động kinh. Điện não đồ có thể phát hiện các bất thường dạng động kinh (các gai, sóng nhọn, các phức hợp gai, sóng chậm, đa gai và các phức hợp sóng chậm). Các bất thường dạng động kinh có thể là hai bên, đối xứng, và đồng bộ ở bệnh nhân động kinh toàn thể nguyên phát và có thể khu trú ở những bệnh nhân động kinh cục bộ. Các kết quả điện não đồ có thể thấy:

. Các bất thường dạng động kinh tập trung ở thùy thái dương giữa các cơn co giật trong các cơn động kinh cục bộ phức tạp bắt nguồn từ thùy thái dương.

. Những cơn kịch phát đối xứng hai bên với tần số 4- đến 7 Hz ở thể động kinh hoạt động trong cơn tăng trương lực - co giật toàn thể nguyên phát.

. Các phóng điện dạng động kinh cục bộ trong cơn động kinh thứ phát toàn thể.

. Các đợt phóng điện, sóng chậm và nhiều gai xảy ra cùng lúc với tốc độ 3 đợt /giây và thường là điện não đồ bình thường giữa các cơn động kinh vắng ý thức điển hình.

. Các đợt phóng điện gai chậm và sóng thường ở tốc độ < 2,5 đợt / giây, điển hình là có sự xáo trộn giữa hoạt động nền và sóng chậm khuếch tán, trong các cơn động kinh vắng ý thức không điển hình.

. Đa gai và sóng bất thường hai bên ở tần số từ 4-6 Hz trong động kinh giật cơ thiếu niên.

Tuy nhiên, EEG bình thường cũng không thể loại trừ chẩn đoán động kinh co giật, cần phải dựa trên lâm sàng. EEG ít có khả năng phát hiện những bất thường nếu động kinh không thường xuyên. EEG ban đầu có thể phát hiện bất thường về dạng động kinh trong 30 đến 55% bệnh nhân có tiền sử co bệnh động kinh. EEG liên tục có thể phát hiện các dạng động kinh bất thường trong 80 đến 90% các bệnh nhân này. Nói chung, EEG liên tục với thời gian ghi kéo dài cùng với các xét nghiệm được thực hiện sau khi thiếu ngủ làm tăng đáng kể khả năng phát hiện các bất thường dạng động kinh trong bệnh nhân động kinh co giật.

Bệnh nhân nội trú được theo dõi kết hợp video điện não đồ thường từ 2 đến 7 ngày, ghi nhận hoạt động của điện não đồ và triệu chứng lâm sàng cùng một lúc. Đây là xét nghiệm EEG nhạy nhất sẵn có, do đó rất hữu ích trong việc phân biệt động kinh từ các cơn co giật không phải do động kinh.

Khi cân nhắc phẫu thuật cắt bỏ các khu vực khởi phát động kinh, cần các phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến để xác định các khu vực này có nằm trong các trung tâm động kinh hay không. MRI chức năng có thể nhận diện chức năng vỏ não và hướng dẫn vị trí cần phẫu thuật cắt bỏ. Nếu EEG và MRI không xác định được rõ ràng vị trí ổ động kinh, từ não đồ kết hợp với EEG (gọi là hình ảnh nguồn gốc từ trường) có thể định vị tổn thương này, tránh được các thủ thuật định vị xâm lấn. Chụp cắt lớp vi tính phát xạ photon đơn (SPECT) trong suốt khoảng thời gian quanh động kinh có thể phát hiện sự gia tăng tưới máu ở ổ động kinh, điều này giúp cho việc định vị vị trí để phẫu thuật cắt bỏ. Do việc tiêm thuốc cản quang là bắt buộc trong thời gian động kinh, bệnh nhân phải nhập viện để theo dõi video- điện não đồ liên tục khi chụp SPECT trong khoảng thời gian ngắn quanh cơn động kinh.

Xét nghiệm tâm thần kinh có thể giúp xác định các thiếu hụt chức năng trước và sau khi phẫu thuật và giúp dự đoán tiên lượng và khả năng hồi phục chức năng tâm lý - xã hội.

 

6. Tiên lượng.

Với điều trị, cơn động kinh được loại bỏ ở 1/3 số bệnh nhân động kinh co giật và tần suất các cơn động kinh giảm > 50% ở một phần ba khác. Khoảng 60% bệnh nhân có cơn động kinh kiểm soát tốt bằng thuốc cuối cùng có thể ngừng thuốc và duy trì không cơn.

Bệnh động kinh được coi là khỏi khi bệnh nhân không có cơn động kinh trong 10 năm và không dùng thuốc chống co giật trong 5 năm cuối của thời kỳ đó.

Chết đột ngột không giải thích được trong bệnh động kinh (SUDEP) là một biến chứng hiếm gặp, nguyên nhân chưa rõ.

 

7. Điều trị.

  • Loại bỏ nguyên nhân nếu có thể.

  • Tránh hoặc đề phòng trong trường hợp mất ý thức có thể đe dọa tính mạng.

  • Dùng thuốc kiểm soát cơn động kinh.

  • Phẫu thuật nếu 2 thuốc trong liều điều trị không kiểm soát được cơn động kinh.

Điều trị tối ưu các cơn co giật là loại bỏ các nguyên nhân bất cứ khi nào có thể.

Nếu không thể điều chỉnh hoặc xác định nguyên nhân, cần dùng thuốc chống co giật, đặc biệt sau khi cơn động kinh lần thứ hai; lợi ích của thuốc chống co giật sau một cơn động kinh đơn độc còn gây tranh cãi, và những rủi ro và lợi ích cần được thảo luận với bệnh nhân. Do nguy cơ động kinh sau đó thấp, nên có thể giữ lại các loại thuốc cho đến khi có cơn động kinh lần thứ hai, đặc biệt ở trẻ em. Ở trẻ em, một số thuốc chống co giật ảnh hưởng tới hành vi và các vấn đề học tập.

Trong một cơn động kinh tăng trương lực - co giật toàn thể, nên tránh chấn thương bằng cách nới lỏng áo quanh cổ và đặt gối dưới đầu. Cố gắng bảo vệ lưỡi là vô ích và có khả năng làm hỏng răng của bệnh nhân hoặc ngón tay của người cứu hộ. Bệnh nhân nên được nằm nghiêng bên trái để tránh viêm phổi hít phải. Những biện pháp này nên được giảng dạy cho các thành viên trong gia đình và đồng nghiệp của bệnh nhân.

Do động kinh cục bộ có thể trở nên toàn thể, bệnh nhân có nguy cơ mất ý thức và do đó nên được khuyên dùng các biện pháp dự phòng nhất định. Cho đến khi động kinh được kiểm soát, bệnh nhân nên tránh các hoạt động mà mất ý thức có thể đe doạ đến tính mạng (ví dụ như lái xe, bơi lội, leo núi, vận hành các dụng cụ điện, tắm trong bồn tắm). Sau khi động kinh được kiểm soát hoàn toàn (thường > 6 tháng), các hoạt động như vậy có thể được tiếp tục nếu có các biện pháp bảo vệ thích hợp (ví dụ như nhân viên cứu hộ) và bệnh nhân nên được khuyến khích để có cuộc sống bình thường, bao gồm tập thể dục và các hoạt động xã hội.

Ở một số tiểu bang, bác sĩ phải báo cáo bệnh nhân bị động kinh cho Bộ phận quản lý các phương tiện cơ giới. Tuy nhiên, hầu hết các tiểu bang cho phép lái xe ô tô sau khi bệnh nhân không bị động kinh trong 6 tháng đến 1 năm.

Bệnh nhân nên được khuyên tránh cocaine và một số loại thuốc bất hợp pháp khác (ví dụ, phencyclidine, amphetamines), có thể gây co giật và tránh uống rượu. Một số loại thuốc (ví dụ haloperidol, phenothiazines) có thể làm giảm ngưỡng khởi phát động kinh và nên tránh nếu có thể.

Các thành viên trong gia đình phải được dạy cách tiếp xúc thông thường nhất đối với bệnh nhân. Nên hỗ trợ giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực (ví dụ như tự ti hoặc e dè) thay vì bảo vệ quá mức; cần phòng tránh tàn tật.

Chăm sóc có hệ thống hiếm khi được khuyến khích và nên dành cho những bệnh nhân suy giảm nhận thức nghiêm trọng và những bệnh nhân không thể điều trị tại nơi khác do động kinh thường xuyên với cường độ mạnh và kháng trị.

Động kinh cấp và trạng thái động kinh

Hầu hết các cơn động kinh đều tự phát trong vài phút hoặc ít hơn và không cần điều trị bằng thuốc cấp cứu. Tuy nhiên, nếu trạng thái động kinh và cơn co giật kéo dài > 5 phút cần dùng thuốc cắt cơn, theo dõi tình trạng hô hấp. Cần thiết đặt nội khí quản nếu có bất cứ dấu hiệu nào của sự tắc nghẽn đường thở.

Liệu pháp chống co giật nên được bắt đầu càng sớm càng tốt để việc kiểm soát động kinh càng tốt hơn và dễ dàng hơn.

Nên nhanh chóng đặt đường truyền tĩnh mạch và bệnh nhân được dùng lorazepam 0,05 đến 0,1 mg/kg tiêm tĩnh mạch (thường là liều 4 mg tiêm tĩnh mạch cho người lớn) với tốc độ 2 mg / phút. Đôi khi cần dùng liều lớn hơn. Sau khi dùng lorazepam có thể chỉ định thuốc thứ hai chống co giật tác dụng kéo dài hơn.

Không có sự đồng thuận hoặc hướng dẫn dựa trên bằng chứng cho thấy thuốc chống co giật tác dụng kéo dài nào được ưa dùng hơn. Nhiều chuyên gia chọn một trong các cách sau:

. Fosphenytoin 15 đến 20 PE (tương đương với phenytoin)/kg tiêm tĩnh mạch, được dùng với tốc độ từ 100 đến 150 PE/phút.

. Phenytoin 15 đến 20 mg/kg tiêm tĩnh mạch, được dùng với tốc độ 50 mg/phút.

Nếu động kinh vẫn còn sau khi dùng liều này, có thể cho thêm 5 đến 10 PE/kg fosfenytoin hoặc 5 đến 10 mg/kg phenytoin.

Các thuốc chống co giật khác bao gồm:

. Valproate từ 20 đến 40 mg/kg tiêm tĩnh mạch (liều nạp) trong 30 phút, tiếp theo là 4 đến 8 mg/kg uống 3 lần/ngày

. Levetiracetam 1500 đến 3000 mg tiêm tĩnh mạch trong 25 phút, sau đó uống 1500 mg 2 lần/ngày

Nếu không thể thiết lập được đường truyền tĩnh mạch, các lựa chọn bao gồm tiêm bắp fosphenytoin và benzodiazepine dưới lưỡi hoặc trực tràng.

Động kinh kéo dài sau khi sử dụng lorazepamphenytoin (hoặc thuốc chống co giật thứ hai khác) xem như tình trạng động kháng trị.

Các khuyến cáo về thuốc chống co giật thứ 3 khác nhau bao gồm phenobarbital, propofol, midazolam, levetiracetam và valproate. Liều phenobarbital là 15 đến 20 mg/kg tiêm tĩnh mạch 100 mg/phút (3 mg/kg/phút ở trẻ em); các cơn động kinh sau đó cần thêm liều từ 5 đến 10 mg/kg. Một liều nạp valproate 20 đến 40 mg/kg tiêm tĩnh mạch là một phương pháp thay thế.

Tại thời điểm này, nếu trạng thái động kinh không giảm cần đặt nội khí quản và gây mê toàn thân. Thuốc gây mê tối ưu cho trường hợp này là vấn đề gây tranh cãi, nhưng nhiều bác sĩ sử dụng propofol 1 đến 2 mg/kg ở liều 100 mg/phút hoặc pentobarbital 5-8 mg/kg (liều nạp) sau đó truyền 2 đến 4 mg/kg/h cho đến khi trên điện não đồ các cho thấy hoạt động của sóng động kinh đã bị ức chế. Ít khi sử dụng thuốc gây mê đường hít.

Sau khi điều trị ban đầu, phải xác định và điều trị nguyên nhân của trạng thái động kinh.

Động kinh sau chấn thương

Nếu chấn thương đầu gây ra tổn thương cấu trúc đáng kể (ví dụ: các vết xước hoặc tụ máu lớn, dập não, vỡ xương sọ) hoặc thang điểm hôn mê Glasgow (GCS) của bệnh nhân < 10 cần chỉ định dùng thuốc ngăn ngừa động kinh. Những loại thuốc này làm giảm nguy cơ co giật trong tuần đầu sau khi chấn thương nhưng không ngăn ngừa lâu dài bệnh động kinh sau chấn thương nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó. Nên ngừng thuốc sau 1 tuần trừ khi động kinh xảy ra.

Nếu cơn động kinh bắt đầu > 1 tuần sau khi chấn thương sọ não, cần điều trị lâu dài bằng thuốc.

Điều trị thuốc lâu dài

Thuốc chống co giật có thể được dùng suốt đời, nhưng nhiều loại co giật (ví dụ như hầu hết các cơn co giật do sốt, động kinh do cai rượu, động kinh không tái phát) không cần điều trị bằng thuốc chống co giật.

Không có thuốc duy nhất kiểm soát tất cả các loại co giật, và các bệnh nhân khác nhau yêu cầu các loại thuốc khác nhau. Một số bệnh nhân cần nhiều thuốc. Các loại thuốc được ưu tiên khác nhau tùy thuộc vào loại động kinh.

Phẫu thuật

Khoảng 10 đến 20% bệnh nhân có cơn động kinh tái phát kháng trị và thường là đối tượng cần phẫu thuật. Nếu cơn động kinh bắt nguồn từ một điểm, vùng có thể cắt bỏ được trong não, việc cắt bỏ ổ động kinh ổ thường giúp cải thiện rõ rệt việc kiểm soát cơn động kinh. Nếu ổ khởi phát ở thùy thái dương trước giữa, việc cắt bỏ sẽ giúp giải quyết cơn co giật ở khoảng 60% bệnh nhân. Sau khi phẫu thuật, một số bệnh nhân không còn co giật và không cần dùng thuốc, nhưng nhiều người vẫn cần thuốc, tuy nhiên có thể giảm liều và chỉ cần đơn trị liệu.

Vì phẫu thuật đòi hỏi phải kiểm tra và theo dõi chuyên sâu, những bệnh nhân này tốt nhất nên được điều trị ở các trung tâm động kinh chuyên biệt.

Kích thích thần kinh phế vị

Kích thích điện liên tục dây thần kinh phế vị trái sử dụng thiết bị tạo nhịp cấy ghép (kích thích dây thần kinh X) là liệu pháp bổ trợ cho điều trị thuốc ở những bệnh nhân co giật không kiểm soát và không có chỉ định phẫu thuật. Thủ thuật này làm giảm số cơn động kinh cục bộ 50% trong khoảng 40% bệnh nhân. Sau khi thiết bị được lập trình, bệnh nhân có thể kích hoạt nó bằng nam châm để ngăn cơn động kinh sắp xảy ra.

Tác dụng phụ của kích thích thần kinh X bao gồm làm trầm giọng nói trong khi kích thích, ho, và khàn tiếng. Các biến chứng là tối thiểu .

Thời gian có hiệu quả không rõ ràng.

Những điểm chính.

. Nguyên nhân thường gặp của động kinh bao gồm dị tật bẩm sinh hoặc chấn thương, khuyết tật mắc phải và rối loạn chuyển hóa ở trẻ <2 tuổi; bệnh động kinh tự phát ở trẻ em từ 2 đến 14 tuổi; chấn thương sọ não, cai rượu, khối u và đột quỵ ở người lớn; và khối u và đột quỵ ở người cao tuổi.

. Mất ý thức có thể là do động kinh nếu bệnh nhân cắn phải lưỡi, mất kiểm soát cơ tròn (ví dụ nước tiểu hoặc phân trong quần áo), hoặc lú lẫn trong một thời gian dài sau khi mất ý thức.

. Đánh giá bệnh nhân động kinh cho ta dấu hiệu gợi ý các nguyên nhân (ví dụ như sốt, cứng gáy, tổn thương thần kinh khu trú, kích thích thần kinh cơ và tăng phản xạ, phù gai thị) và định hướng xét nghiệm sau đó.

. Đánh giá tất cả các bệnh nhân có cơn động kinh mới hoặc đông kinh chưa rõ nguyên nhân bằng hình ảnh học thần kinh, điện não đồ và xét nghiệm máu.

. Nói chuyện với bệnh nhân về cách tránh hoặc giảm thiểu các cơn động kinh và làm thế nào để giảm nguy cơ tai biến do động kinh (ví dụ như không lái xe và không bơi một mình).

. Thuốc chống co giật có thể phải dùng suốt đời, nhưng nhiều loại động kinh (ví dụ như hầu hết các cơn co giật do sốt, co giật do cai rượu, động kinh không tái phát) không cần điều trị chống co giật.

. Cân nhắc phẫu thuật nếu điều trị ≥ 2 thuốc chống co giật vẫn không kiểm soát được cơn động kinh.

 ktk@vn tham khảo nguồn MSD